Giá trị đáng kinh ngạc của vỏ sò
' %2F%3E%3C%2Fsvg%3E)
Khoảng 3000 năm trước, tại vùng Trung Nguyên (ngày nay là khu vực Hà Nam và các tỉnh phụ cận ở Trung Quốc), thứ được xem là “tài sản cứng” không phải vàng hay ngọc, mà là những chiếc vỏ sò tự nhiên đến từ các bờ biển.
Ở thời nhà Thương và nhà Chu, những chuỗi vỏ sò treo bên hông quý tộc là hình ảnh không quá khó để bắt gặp. Loại tiền đặc biệt này còn được lưu lại trong sử sách chữ Hán, khi phần lớn các đoạn liên quan đến tài sản, giao thương... đều mang từ “bối”.
Dựa trên các thư tịch cổ, nguồn tin từ Sohu tiết lộ rằng giá trị giao dịch của vỏ sò có thể khiến bạn kinh ngạc. Điển hình, một nữ tướng Phù Hạo được cho là đã dùng 700 vỏ sò mua 90 mẫu ruộng. Hay một quyền trượng ngọc thời Tây Chu được định giá 80 vỏ sò, cùng nhiều thửa đất đi kèm. Trong khi đó, giá của một nô lệ thời kỳ đó chỉ tương đương vài vỏ ốc.
Nhìn vào đó, không ít người trong số chúng ta nghĩ rằng chỉ cần ra biển nhặt vài cái vỏ sò là có thể lập tức “đổi đời”. Song đối với người xưa, việc ấy gần như là bất khả thi, và khoa học, lịch sử cũng cho thấy lý do rất rõ ràng.
Tìm vỏ sò không dễ
Trước hết, phần lớn cư dân Trung Nguyên sống ở vùng nội địa Thiểm Tây – Hà Nam, cách biển quá xa để có thể tiếp cận.
Hành trình tới biển phải băng qua đầm lầy, rừng sâu, thú dữ và nguy cơ bệnh tật như sốt rét. Các bộ lạc dọc đường cũng không mấy thân thiện, nhiều nơi sẵn sàng bắt người lạ làm nô lệ. Việc đi nhặt vỏ sò là một cuộc phiêu lưu đánh đổi bằng sinh mạng.
Nhưng ngay cả khi ai đó may mắn tới được biển, họ sẽ nhanh chóng nhận ra những vỏ sò nằm lẫn trên bãi cát hoàn toàn không phải là thứ có thể quy đổi thành tiền tệ.
' %2F%3E%3C%2Fsvg%3E)
Những vỏ được dùng làm tiền thời Thương – Chu chủ yếu thuộc các loài hiếm như ốc tiền vòng, trai hổ... phân bố ở vùng biển ấm xa xôi phía nam Phúc Kiến.
Đây cũng là đặc điểm chung được ghi nhận ở nhiều nền văn hóa dùng vỏ sò làm tiền trên thế giới. Cụ thể tại Châu Phi, loại vỏ sò có tên cowrie chỉ có thể được lấy ở vùng nước sâu và phải qua nhiều khâu tuyển chọn.
Ở Bắc Mỹ, người Chumash chế tác vỏ sò thành chuỗi với độ đồng nhất cao đến mức gần như “chuẩn công nghiệp”. Đây là lý do khiến việc tự thu thập và chế tác vỏ sò là bất khả thi. Nhiều vương triều thậm chí độc quyền thu gom vỏ sò, biến chúng thành tài sản chiến lược.
Bên cạnh sự khan hiếm tự nhiên, kỹ nghệ chế tác cũng là yếu tố ngăn cản việc “nhặt sò đổi của”.
' %2F%3E%3C%2Fsvg%3E)
Các tài liệu khảo cổ học cho thấy tiền vỏ sò thời Thương - Chu đều được mài nhẵn, khoan lỗ, đánh bóng trước khi xâu chuỗi. Đó là quy trình tinh xảo chỉ những thợ thủ công chuyên nghiệp mới thực hiện được.
Hệ thống này gần giống một “xưởng đúc tiền” cổ đại, đảm bảo tiêu chuẩn và hạn chế làm giả. Theo tư liệu lịch sử, nhà Thương áp dụng cơ chế “phát hành tập trung”, nghĩa là chỉ những vỏ sò đã được hoàng gia chứng thực mới có giá trị lưu hành. Và việc người dân tự ý nhặt vỏ mang đi giao dịch là điều không thể xảy ra.
Quy tắc này không khác mấy so với tiền tệ hiện đại. Cụ thể, tiền chỉ có giá trị khi được xã hội thừa nhận, được bảo đảm bởi thể chế và có cơ chế kiểm soát phát hành. Khi nguồn cung vượt ngưỡng, lạm phát xảy ra.
Cuối thời Thương, bằng chứng khảo cổ cho thấy vỏ sò bắt đầu mất giá do tình trạng bắt chước và mô phỏng bằng đồng. Đây cũng là hiện tượng từng xảy ra ở châu Phi và các đảo Thái Bình Dương, khi việc “mở rộng nguồn cung” khiến tiền vỏ sò sụp đổ, nhường chỗ cho tiền kim loại.
Theo
www.sohu.com